Đình Thụy Ứng là một công trình kiến trúc cổ mang tên của làng. Khi Bảo Đại lên ngôi vua, để tránh tên húy Vĩnh Thụy, trong vài chục năm làng phải đổi tên thành Tường Ứng. Sau cách mạng tháng 8/1945 lại gọi là Thụy Ứng. Hiện nay làng thuộc xã Hòa Bình, huyện Thường Tín.
Đình được xây dựng ở khu đất đầu làng. Từ trung tâm Thủ đô Hà Nội, đi theo đường quốc lộ 1A, đến ga Thường Tín, rẽ tay phải vào cổng chào, theo đường 427, đi khoảng 3km là tới di tích.
Theo các văn tự cổ và 24 đạo sắc phong hiện lưu tại di tích thì đình Thụy Ứng thờ 8 vị hoàng đế nhà Lý thế kỷ XI-XII. Đó là các vị vua từ thời Lý Thái Tổ đến đời Lý Huệ Tôn. Lý Chiêu Hoàng là vị vua thứ 9 chưa xưng hoàng đế nên bài vị ở Hậu cung chỉ ghi “Thành hoàng tôn phong hiệu có hưng viện Lý Bát Vị Hoàng đế linh vị”. Ngoài ra, đình còn thờ Đỗ Phục quân chi thần, đó là Đỗ Phụ Chính, tên húy là Đỗ An Di, làm phụ chính cho Lý Cao Tôn. Đỗ An Di là em ruột hoàng hậu Đỗ thị, cậu ruột của vua Lý Cao Tôn.
Tam vị hoàng đế nhà Lý là những vị đứng đầu được lịch sử xưa nay ghi nhận là những người có công mở ra sự phát triển toàn diện của quốc gia phong kiến độc lập, phát triển kinh tế, văn hóa và lãnh đạo kháng chiến chống giặc Tống xâm lược. Lịch sử Việt Nam viết “Vào cuối thế kỷ XI, nửa đầu thế kỷ XII, kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, thương nghiệp tiếp tục phát triển. Trong nước nhân dân làm ăn yên ổn, nhiều năm được mùa. Quốc gia thống nhất và chính quyền tập trung được củng cố thêm. Địa vị nước Đại Việt đối với các nước chung quanh được nâng cao. Ở phía Bắc nhà Tống phải kính nể”.
Đình Thụy Ứng là một công trình kiến trúc có quy mô to lớn và khá lộng lẫy so với quanh vùng. Đình có tòa Thiêu hương, Đại bái và Hậu cung quy mô đồ sộ, ít nhất vào năm Dương Hòa ngũ niên mà câu đầu còn dòng chữ Hán khắc năm tạo dựng còn giữ được ở Đại bái, đình này được xây dựng vào năm 1639, đến thời Nguyễn nhiều lần tu sửa tôn tạo để có quy mô như hiện nay.
Các hạng mục quen thuộc: giếng đình, cột trụ, tường bao, sâu gạch lát gạch Bát Tràng... hiện còn đầy đủ. Tòa Thiêu hương với kiến trúc chồng diêm 2 tầng 8 mái, còn đủ các đầu dao cong vút. Phần cổ diêm đắp nổi các tích Dương dương trường bản, Tam quốc chiến, Lã Bố... Nghệ nhân xưa đã mượn đề tài cổ tích để ca ngợi tinh thần thượng võ, gửi gắm ý đồ và tài năng nghệ thuật. Hạng mục công trình này được tạo dựng năm Bảo Đại tứ niên (1929).
Tòa Đại bái đình Thụy Ứng có kích thước khá lớn, dài 21,64m, rộng 11,22m và được chia làm 5 gian. Vào năm Tự Đức nhị thập bát niên được sửa chữa lại, dân làng đã làm liền trong hai năm 1865-1866 (có khắc vào câu đầu dòng chữ Hán sự việc này). Kết cầu kiến trúc theo bốn hàng chân gỗ và vì nóc kiểu chồng rường, 24 cột gỗ lim. Đại bái có bốn cửa võng sơn son thếp vàng, khảm trai rất công phu. Các bức cốn đều điêu khắc tích “ngư long hý thủy”, mặt sau chạm nổi “Ngũ lão”, “Bát tiên” với bố cục hài hòa, tinh tế.
Đáng lưu ý có những họa tiết điêu khắc cua cắp mỏ chim, hai con vật lộn trên mặt nước. Yếu tố dân gian này rất độc đáo hàm chứa vấn đề xã hội khoảng giữa thế kỷ XIX khi mà chế độ chuyên chế của nhà Nguyễn suy yếu.
Hàng năm hội làng được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng. Hội có rước kiệu, đánh vật, chọi gà... náo nức sôi động những ngày đầu xuân.